Lễ cúng dòng họ của người Mông

Quản trị hệ thống

Trong lịch sử phát triển, dân tộc Mông đã sáng tạo ra một nền văn hoá truyền thống, đậm đà bản sắc, có giá trị cao. Mặc dù sống phân tán, trải qua nhiều cuộc thiên di, nhưng người Mông ở Sơn La vẫn gìn giữ được bản sắc tộc người cũng như kho tàng văn hoá truyền thống đặc sắc.
Người Mông quan niệm: vạn vật hữu hình, đa thần giáo. Họ cho rằng ngự trị, quản lý và điều hành thế giới vạn vật là một lực lượng siêu nhiên, lực lượng siêu nhiên đó được gọi là ma; ma có ở mọi nơi, mọi lúc. Thế giới vạn vật như: đất đai, rừng núi, sông suối, cây cỏ, chim muông, dã thú… đều có linh hồn và là một thực thể sống. Con người phải biết thờ cúng, kiêng kỵ, biết làm các nghi lễ để cầu ma lành phù hộ, bảo vệ.
Từ quan niệm đó, người Mông đã hình thành một lễ thức tôn giáo và các điều kiêng kỵ trong phạm vi một bản, một dòng họ, trong gia đình… Các nghi lễ tôn giáo chung của một cộng đồng trong bản hay trong dòng họ được tổ chức thành các lễ hội của người Hmông: Nào Sồng, Cầu Mùa, Cầu May, Tu Su, Giữ Máu... Trong các lễ nghi mang tính chất tâm linh đó thì nổi bật là Lễ cúng dòng họ với nhiều tên gọi khác nhau ở từng ngành Mông: Tu Su, Ùa Su, Dù Su, Dù Tàu, giữ máu…
Theo truyền thuyết kể lại: “Ngày xưa có một gia đình tên là Pù Su, ông sinh ra được hai con trai, đó là Su Tủa và anh trai của Su Tủa. Su Tủa sinh được một người con trai là Long Dềnh, anh trai của Su Tủa cũng sinh được một người con trai tên là Cử Lỳ Xò nhưng thật không may bố của Cử Lỳ Xò đã mất khi anh còn nhỏ. Vì thương cháu nên Su Tủa đã đưa Cử Lỳ Xò về sống cùng gia đình ông. Trong quá trình chung sống cùng gia đình, từ nhỏ đến lớn Cử Lỳ Xò là một người con ngoan, hiếu thảo nên luôn được chú ruột của mình (Su Tủa) yêu thương, quý mến. Do đó, con trai của Su Tủa ghen tỵ và cho rằng bố mình không thương mình mà yêu thương người ngoài hơn nên Long Dềnh luôn tìm cách để hãm hại Cử Lỳ Xò. Đến một ngày, Long Dềnh nói với bố mình và vu khống cho Cử Lỳ Xò có quan hệ bất chính với mẹ mình về tình cảm dẫn đến Su Tủa không thể chấp nhận được nên đã đánh đuổi Cử Lỳ Xò ra khỏi nhà, rồi tìm cách để giết cháu mình. Bị gia đình Su Tủa hãm hại nên Cử Lỳ Xò đã tìm đến nhà của một thầy cúng (người Mông gọi là Sí Dì) nhờ giúp đỡ và đã được Sí Dì chấp nhận.
Cử Lỳ Xò vừa mới đi ở cùng Sí Dì thì Long Dềnh đã truy đuổi đến để giết nhưng Long Dềnh thất bại và bị Sí Dì và Cử Lỳ Xò giết chết. Nghe tin con trai mình bị giết nên Su Tủa đã tìm đến gia đình Sí Dì để trả thù. Hai bên không giải hoà được nên đã xảy ra cuộc chiến sinh tử.
Trước khi xảy ra cuộc chiến, Sí Dì có đề nghị với Su Tủa là hãy bình tĩnh đợi Sí Dì đi chặt một gốc cây (loại cây có gai và người Mông gọi là Pò chà) và dùng cỏ gianh đan thành một sợi dây dài để trói tất cả họ hàng của Sí Dì lại vào gốc cây để Su Tủa dễ dàng bắt tất cả họ hàng của Sí Dì về làm nô lệ trong trường hợp Sí Dì bại trận. Đề nghị của Sí Dì đã được Su Tủa chấp thuận. Sí Dì vừa mới trói buộc họ hàng mình xong, ông bảo Su Tủa hãy đến theo hướng từ gốc cây, vì sự bực bội, nóng vội Su Tủa không kịp tính toán nên đã xông vào theo hướng Sí Dì bảo những đã bị Sí Dì lừa mắc kẹp vào gai của gốc cây, không kịp chống cử nên bị Sí Dì dễ dàng giết chết.
Ngày tiếp theo không thấy con và cháu về, Pù Su ở nhà không yên lòng nên đã đến nhà Sí Dì để tìm con và cháu mình. Khi đến nhà Sí Dì, Pù Su không những không được Sí Dì cho biết thông tin về con cháu của mình mà ông còn bị Sí Dì lừa dùng thịt của con trai mình để tiếp đãi mình. Sau khi ăn xong, Sí Dì mới nói thức ăn vừa rồi chính là thịt của con trai ông, còn cháu ông đã bị giết hôm trước đó rồi. Ông Pù Su rất tức giận nhưng không trả thù được nên ông đã về nhà. Sau đó, Pù Su già yếu, không tự chăm lo cuộc sống được cũng không có con cháu phụng dưỡng nên ông đã bay lên trời xanh, ở đó, Pù Su luôn tìm cách để trả thù những người còn sống trên trần gian đã đẩy ông vào hoàn cảnh khốn khổ này.
Từ đó, những người không cẩn thận trong lao động, sản xuất, sinh hoạt như đi chặt cây thì bị Pù Su làm phép để cây đổ gây tai nạn thương tích, chết người; đi tắm sông suối thì bị chết đuối; dùng dao, dùng súng thì bị thương tích, bị ông Pù Su ám ảnh, làm phép cho chóng mặt, chảy máu nhiều đến chết.
Dần dần về sau người chết càng nhiều thì Sí Dì mới phát hiện được đó là do Pù Su gây ra và người Mông đã gọi những thiệt hại đó là “vì su vì sừ”. Từ đó, Sí Dì mới nghĩ cách (làm cúng) ngăn chặn, cắt đứt các vì su vì sừ mà Pù Su gây ra đối với con người để Pù Su không làm hại con người nữa.
 Sau khi Sí Dì chết, không có ai thay thế Sí Dì ngăn chặn các vì su vì sừ của Pù Su nữa nên Pù Su lại tiếp tục làm hại con người. Lúc đó, Cử Lỳ Xò mới đi bàn với một ông cụ họ Mùa (người Mông Hoa) để tìm cách gọi Pù Su xuống trần và giết. Họ đã mắng chửi Pù Su bằng những lời lẽ xúc phạm, khiêu chiến và cuối cùng Pù Su cũng đã xuất hiện. Ông họ Mùa không giết ngay mà chạy tới vật lộn bắt ông Pù Su, vì quá già yếu nên Pù Su không vật nổi và đã bỏ về trời, ngay lúc đó Cử Lỳ Xò cầm cái nỏ bắn theo sau 3 phát nhưng cũng không giết đươc Pù Su. Ông Pù Su quay lại và thề rằng:
“Mọi người thật độc ác, thật xấu xa, đã giết chết cả gia đình tôi còn coi thường và lừa tôi để giết. Tôi xin hứa về đến tháng 8 trăng tròn, tháng 9 trăng khuyết hàng năm tôi sẽ đến báo thù”.
Vì vậy, người ta quan niệm đến tháng 8, tháng 9 hàng năm ông Pù Su sẽ quay lại trần gian trả thù, tiếp tục hại người nên họ phải mời thầy cúng (Sí Dì) đến cúng cho tất cả dòng họ, đuổi đi, mang đi tất cả những vì su vì sừ của Pù Su để dòng họ được an lành, hạnh phúc trọn năm. Từ đó, người Mông hình thành nghi lễ cúng dòng họ.
Lễ cúng dòng họ của dòng họ của người Mông được tổ chức hàng năm, hoặc 3 - 5 năm/lần, tùy theo từng dòng họ, ngành Mông khác nhau.
+ Lễ cúng hàng năm: Được tất cả các dòng họ của người Mông tổ chức với quy mô gồm những người cùng dòng họ, thờ cùng ma trong một bản.
+ Lễ cúng 3-5 năm/lần, được tổ chức ở một số dòng họ, ngành Mông nhất định: chủ yếu là ngành Mông Trắng, còn được gọi là Thi Su (nghĩa là cúng cho người Mông trong cùng dòng họ ở quy mô lớn, vượt ra khỏi phạm vi bản, xã, huyện).
- Thời gian tổ chức: tùy theo dòng họ, ngành Mông mà tổ chức vào thời gian khác nhau, nhưng thường tổ chức lễ cúng dòng họ hàng năm từ tháng 5 - 9 âm lịch; Lễ cúng dòng họ 3-5 năm/lần vào ngày 13 hoặc 23 tháng 3 âm lịch. 
Lễ  cúng dòng họ được chia làm hai phần:
+ Phần đầu (Tu, Dù, Sầu...): Nghĩa là cầu, làm lễ cầu cúng thần linh về phù hộ cho con người khỏe mạnh, mùa màng tươi tốt, chăn nuôi phát triển.
+ Phần hai (Su): Nghĩa là nạn, là phần thầy cúng nhờ sức mạnh của thần linh thu hết những tai nạn, rủi ro, bệnh tật, khó khăn... làm phép để bảo vệ con người khỏi bệnh tật, rủi ro, khó khăn...
  1. Nghi lễ hàng năm
* Ngành Mông trắng
Thành phần tham gia Nghi lễ gồm toàn bộ nam giới trong dòng họ, không kể già hay trẻ.
          Trước mấy ngày khi diễn ra nghi lễ cúng, đại diện các hộ gia đình tổ chức một cuộc họp để bàn bạc và thống nhất chọn 01 gia đình trong dòng họ để tổ chức Lễ cúng. Gia đình được chọn phải có người chủ gia đình là người cao tuổi, trưởng dòng họ của bản, thuộc bậc trên có uy tín với người dân trong dòng họ, trong bản. Thường là năm nào cũng chọn gia đình này cho đến khi người chủ gia đình mất đi, thì người trưởng họ của bậc dưới sẽ tiếp tục được chọn để tổ chức Lễ cúng. Sau khi chọn được chủ nhà để tổ chức lễ cúng, chủ nhà sẽ là người tổ chức chọn chủ lễ, chính là thầy cúng.
          Chọn chủ lễ bằng cách bói trứng gà (Chủ nhà cũng có thể làm chủ lễ nếu được thần linh chấp nhận, thầy cúng được chọn không nhất thiết phải cùng dòng họ, không nhất thiết phải cùng bản). Tùy thuộc vào số hộ gia đình nhiều hay ít mà chủ nhà hay trưởng họ quyết định chọn từ 1 đến 3 thầy cúng, trong đó có 1 thầy cúng chính. Lễ cúng sẽ chia thành 02 phần: Cúng chung cho cả dòng họ và cúng riêng cho từng gia đình. Sau khi cúng chung cho cả dòng họ xong, số hộ trong dòng họ được chia ra, mỗi thầy cúng làm lễ cho khoảng từ 20-25 gia đình.
Sau khi chọn được thầy cúng, dòng họ cử 2 người đại diện biết nói tốt, là đàn ông và am hiểu về cách mời để đi mời thầy về cúng.
Lễ vật để cúng do chủ nhà chuẩn bị gồm: 1 con gà trống to để làm lễ; 1 hoặc 2 con lợn (khỏng 10-15kg); Tiền mặt; 1 con gà để trả công cho thầy cúng; Tiền trả công cho người mang đồ lễ đi chôn; Tiền âm phủ. Một số lễ vật khác:
          + Ngành Mông Trắng: Chuẩn bị 01 chiếc lọ đục bằng đá thường là đá xít có đường kính miệng 10cm; chiều cao 30cm, có nắp đậy.
+ Ngành Mông Hoa và Mông Đen: lấy một cây "Giăng" về chôn ở sau nhà, phía sau vách có bàn thờ (xử cang).
Vật chất và đồ lễ của các thành viên trong dòng họ chuẩn bị mang đến góp gồm: Mỗi một thành viên mang theo 03 sợi chỉ màu: vàng, xanh, đỏ và 1 con gà trống; Thịt lợn; gạo; rượu...  đủ cho các thành viên ăn 3 bữa chính;
 Lễ vật do các gia đình đóng góp cũng có sự khác nhau giữa các ngành Mông:
+ Mỗi gia đình ngành Mông Hoa và Mông Đen mang đến 3 bông lau.
+ Ngành Mông Trắng dùng giấy màu.
Người ta làm một bàn thờ cho thầy cúng, ở vách đối diện cửa chính.
          * Ngày đầu tiên của nghi lễ
          Đại diện dòng họ rót rượu mời thầy cúng, nói lời nhờ thầy cúng. Thầy cúng nhận lời và bắt đầu làm lễ mời thần linh. Thời gian thực hiện nghi lễ này khoảng 3giờ - 4 giờ tuỳ thuộc vào việc các thần linh chấp nhận lời khẩn cầu sớm hay muộn, dòng họ nhiều hay ít người. Khi được thần linh chấp nhận lời mời thì nghi lễ kết thúc. Chủ nhà cắt một ít hình nhân bằng giấy, đốt giữa nhà để biếu thần linh, ma rừng, ma núi. Trong nghi lễ phải đốt hương liên tục.
          * Ngày thứ hai: Nghi lễ chính
Nghi lễ này diễn ra tại bàn thờ thầy cúng, cạnh nơi thờ ma nhà (xử cang). Trước lễ cúng, ngay từ sáng sớm thầy cúng đã đi thăm tất cả các gia đình của dòng họ ở trong bản xem xét gia cảnh để thầy cúng cầu khấn xin thần linh cho chính xác.
 Khoảng 8 giờ sáng, thầy cúng bày bàn thờ. Trên bàn thờ đặt bộ đồ cúng của thầy cúng, dưới đất buộc 01 con gà trống của chủ nhà bằng 3 sợi chỉ màu.
Một số người cắt giấy màu và hình nhân để làm đồ lễ. Lễ cúng ngày thứ hai bắt đầu từ 8 giờ sáng, gồm 3 phần: phần cúng chung; cúng cho các hộ gia đình và cuối cùng là lễ cúng tiễn đưa các thần linh trở về.
- Phần cúng chung: thầy cúng khấn để cho thần linh về nhận đồ lễ.
Các thành viên trong dòng họ là nam giới tập trung đông đủ giữa nhà, trước bàn thờ nơi thầy cúng ngồi hành lễ. Sau khi đại diện dòng họ nhờ thầy cúng cúng cho gia đình, dòng họ, thầy cúng nhận lời, đốt tiền âm phủ và xin phép thần linh được thực hiện lễ cúng. Thầy cúng cầm cuộn chỉ đi vòng quanh những người trong dòng họ, tạo thành hàng rào có ý nghĩa bảo vệ con cháu trong dòng họ, tạo thành một khối đoàn kết. Sau đó khấn cầu mong thần linh phù hộ cho các gia đình khỏe mạnh, giống nòi phát triển, mọi người đoàn kết, yêu thương…
- Phần 2: Cúng cầu xin cho từng gia đình:
Người ta gom hết các mảnh giấy màu hình vuông xanh đỏ cho vào lọ đá. Đặt cho mỗi gia đình một số hình nhân bằng giấy và những sợi chỉ màu của các gia đình đem đến. Đại diện dòng họ nhờ hai người đi chôn lọ đá và nhờ các thầy cúng tiếp tục thực hiện lễ cúng cho từng hộ gia đình.
Có hai người trong dòng họ được cử ra để phụ giúp hai thầy cúng, họ đánh chiêng liên tục trong vòng 20' để giúp hai thầy cúng nhập hồn. Khi hai thầy cúng đã gặp được thần linh thì họ ngồi chờ nghe thông điệp của hai thầy cúng truyền thông điệp để báo cho người giúp việc thứ 3. Người phụ giúp thứ 3 ngồi ở giữa nhà để thực hiện thông điệp của thầy cúng. Mỗi thầy cúng sẽ cúng cho từng gia đình. Sau khi cúng xong cho gia đình nào thì người phụ giúp lại nhặt chỉ màu và hình nhân của gia đình đó đã được để sẵn trên nền nhà cho vào lọ đá. Tùy theo từng gia đình mà thời gian cúng chậm hay nhanh, đó là tuỳ thuộc vào thầy cúng tiếp xúc với thần linh thế nào. Ngoài ra còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của từng gia đình mà thầy cúng yêu cầu đốt hương, đốt giấy hay giữ lại hình nhân bằng giấy (tuỳ thuộc vào gia đình có người bị bệnh, tai nạn hay chăn nuôi không tốt...). Lễ cúng cứ tiếp tục cho đến khi cúng xong hết cho các gia đình. Thầy cúng yêu cầu đưa con gà trống đỏ ra, buộc ở giữa nhà, cạnh chiếc lọ đá cho thần linh chứng kiến, cửa chính được mở ra, thầy cúng quăng mạnh nhạc cụ trên tay ra cửa, coi như đã đuổi được ma dữ, những điều rủi ro, bệnh tật. Người ta mang chiếc lọ đá đựng toàn bộ giấy mầu, chỉ mầu của các thành viên trong dòng họ, con gà trống đỏ ra ngoài cửa để mang đi chôn và nhanh chóng đóng cửa chính lại.
- Phần 3: Cúng tiễn các thần linh về trời:
Sau khi kết thúc lễ cúng riêng cho từng gia đình, Thầy cúng tiếp tục lễ cúng tiễn đưa thần linh về trời.
Hai người mang theo một số vật dụng như: cuốc xẻng, nồi, củi, nước, lửa... đi về hướng tây, hướng mặt trời lặn, cách nhà khoảng 200 - 500m để chôn lọ đá. Địa điểm chôn chiếc lọ đã được thầy cúng và chủ nhà chọn trước. Chôn xong, họ mổ gà ngay trên chỗ chôn lọ đá, ăn hết thịt con gà rồi đó mới quay trở về nhà chủ.
          Ở nhà, thầy cúng thực hiện bài cúng cuối cùng tiễn đưa thần linh về trời, khoảng 15-20'. Sau khi tổ chức xong phần lễ, dòng họ tổ chức bữa cơm thân mật mời tất cả các gia đình cùng dự.
* Ngành Mông Hoa và Mông Đen
Các bước tiến hành cơ bản giống như người Mông Trắng, tuy nhiên có một số động tác, lễ vật khác: Khi bắt đầu buổi lễ, Trưởng họ tập hợp các thành viên nam trong dòng họ lại đứng tập trung thành một khối cách chiếc bàn bày lễ một khoảng cách thuận tiện cho thấy cúng (hoặc trưởng họ) thực hiện lễ cúng. Thầy cúng vác cây “Giăng” (cây móc rừng) có treo bó lau; tay cầm 1 bầu rượu và cuộn chỉ chín màu khác nhau đo vòng quang khối người theo chiều ngược kim đồng hồ để cuốn các sợi chỉ quanh khối người; miệng khấn bằng tiếng Mông với nội dung cầu xin ma núi, ma rừng, sông suối… phù hộ cho cả dòng họ, trồng trọt, chăn nuôi phát triển; trẻ con, người già luôn khỏe mạnh… giống nòi phát triển đông đúc. Khi đi đủ 9 vòng xung quanh khối người, đến điểm đầu tiên của cuộn chỉ thì thầy cúng đứng lại và cắt đầu chỉ, sau đó dùng các sợi chỉ đó cuốn xung quanh bó lau ở phần cuống. Cây “Giăng” được thầy cúng dùng dao chặt đứt toàn bộ phần ngọn, 1 người khác họ cầm chiếc nỏ bắn mũi tên lên trời theo hướng mặt trời mọc với ý nghĩa đuổi hết mọi điều không may mắn của năm cũ đi.
Thầy cúng cùng người phụ lễ quay về cửa chính ngôi nhà, thầy cúng và người phụ lễ chụm mũi dao, nỏ với nhau tạo thành một chiếc cổng. Lúc này cây “Giăng” đã được nhổ lên đặt dưới cổng. Mọi thanh viên trong dòng họ lần lượt bước qua dưới chiếc cổng đó - kết thúc lễ cúng dòng họ.
Người giúp việc bắn mũi tên được hưởng 1 rổ ngô bắp và con gà buộc dưới bàn lễ. Cuối cùng, gia đình tổ chức bữa cơm cùng mọi người tham dự nghi lễ vui vẻ.
          * Riêng đối với người Mông Hoa, gia đình nào đăng ký tổ chức Lễ cúng dòng họ năm sau phải làm Lễ tạ ơn. Đây là một lễ bắt buộc mà chủ lễ cúng phải làm sau khi giao cho chủ khác trong dòng họ, từ 22 giờ ngày 29 tết đến 5 giờ sáng ngày 30 tết (tết Mông). Lễ vật gồm 1 con gà trống lông màu đỏ; 3 xâu lá cây "Tơ Ca"; 2 chén rượu; ngô trắng, ngô đỏ, đỗ tương. Người làm lễ vừa khấn vừa đảo và tung số ngô trắng, ngô đỏ, đỗ tương ra bốn phía quanh nhà.
  1. Nghi lễ 3-5 năm/lần
Nghi lễ này chủ yếu của các dòng họ của người Mông Trắng ngành Mông Đen và Mông Hoa chỉ cúng hàng năm. Nghi lễ còn có tên gọi khác là Thi Su, tổ chức vào ngày 13/3 hoặc ngày 23/3 âm lịch tại gia đình trưởng họ có người cao tuổi nhất. Thành phần tham gia nghi lễ gồm toàn bộ nam giới trong dòng họ cư trú tại các bản trong xã, khác xã cùng thờ chung một ông tổ thì tham gia nghi lễ.
Việc chọn thầy cúng, địa điểm làm lễ cũng như công tác chuẩn bị được thực hiện như lễ cúng hàng năm. Chủ nhà ghi tên từ 5 đến 7 thầy cúng của dòng họ, dùng cách bói trứng để chọn lấy 4 thầy cúng. Việc chọn thầy cúng phải đảm bảo một số tiêu chí sau: Thầy cúng không có tuổi lẻ như số 3,7,9 (ví dụ: 43, 47, 49…); có sức khỏe; trong năm đó gia đình thầy cúng không có vận hạn, tang ma gì; phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm và đặc biệt thần linh phải chấp nhận.
* Chuẩn bị lễ vật do chủ nhà chuẩn bị giống như lễ cúng hàng năm của người Mông Trắng. Ngoài ra, chuẩn bị thêm 1,5 kg gạo tẻ cho thầy cúng thứ 4 mang theo để ăn dọc đường 1 bát hạt y dĩ rang nở; 2 lít rượu trắng dùng để đặt ở bàn thờ và mời thầy cúng. Việc chuẩn bị bàn thờ cũng giống như lễ cúng hàng năm.
Vật chất của các thành viên trong dòng họ chuẩn bị: Tất cả thành viên nam trong dòng họ tham dự lễ cúng cần phải có vật chất kèm theo đó là: Tiền mặt: Mỗi người trong dòng họ khi đi dự lễ hoặc không dự lễ đều nộp quỹ chung là 25.000đ;  3 sợi lanh màu xanh, đỏ, vàng; mỗi người  làm cho mình 1 con dao, 1 cái kiếm, 1 khẩu súng bằng gỗ mềm (người Mông gọi là gỗ ma - Ca thinh), dài từ 10 - 15 cm, đó được quan niệm là vũ khí cần thiết để săn bắn, bảo vệ gia đình, dòng tộc.
* Ngày đầu tiên
Công tác chuẩn bị cũng giống như Lễ cúng hàng năm.
Lễ trình được bắt đầu vào 14h ngày đầu tiên. Nội dung cũng giống như lễ cúng hàng năm, chỉ khác là có 4 thầy cùng cúng một lúc. Thời gian cúng diễn ra khoảng 2,5 - 3,5  giờ  tùy thuộc vào ma rừng, ma núi xem có ủng hộ lời thỉnh cầu của các thầy cúng hay không.
Trong lễ cúng, các thành viên nam ngồi tập trung trong nhà, ngoài sân rất đông đúc, vừa tham gia nghi lễ vừa thể hiện sức mạnh của dòng họ.
* Ngày thứ hai của lễ cúng
Phần cúng này do cả 4 thầy cúng cùng thực hiện có 02 nội dung:
- Phần 1: Cúng chung, xin dâng lễ vật
- Phần 2: Cúng riêng cho từng hộ gia đình
8 giờ sáng, Chủ nhà thắp 3 nén hương khấn tổ tiên, tiếp theo mời ông trưởng ban đại diện dòng họ cùng 4 thầy cúng ngồi hội ý trước bàn thờ. Ông trưởng ban đại diện báo cáo với các thầy cúng trong 3 năm qua những gia đình nào trong dòng họ gặp phải vận hạn gì? Mức độ nguy hại đến đâu? Đời sống có ổn định không? Việc tăng gia chăn nuôi có gặp khó khăn gì? Sản xuất có thuận lợi không? Tất cả những khó khăn gặp phải đã giải quyết được như thế nào? Trao đổi với thầy cúng về những điều mong muốn của của bà con…Sau khi thầy cúng đã nghe báo cáo tình tình vận hạn, những đề xuất của bà con. Thầy nhận lời cúng cho tất cả mọi gia đình và lưu ý tới một số gia đình gặp khó khăn.
Lễ chính được diễn ra vào lúc 10 giờ ngày thứ hai.
Phần 1: Cúng chung xin dâng lễ vật
Phần cúng này để trình với thần linh, tổ tiên những lễ vật dòng họ dâng lên, mong thần linh, tổ tiên nhận và phù hộ.
Phần 2: Cúng riêng cho từng hộ gia đình
Thực hiện việc cúng cho các gia đình bắt đầu từ 11h ngày lễ thứ hai (khi xong lễ cúng chung). Phần cúng này cũng giống như lễ cúng hàng năm. Tuy nhiên, lọ đá đựng đồ lễ được đậy kín để vào góc nhà, hôm sau mới đưa đi chôn.
Việc cúng riêng cho từng hộ gia đình được phân chia rõ ràng.
Thầy cúng nhập hồn “bay lên không trung” đến từng hộ gia đình xem xét thực tế họ ăn ở thế nào? gặp ma nhà trao đổi, dặn dò cách bảo vệ trông nom cho gia chủ cẩn thận để gia chủ khỏi gặp phải cảnh tai ương. Thời gian cúng cho mỗi gia đình không giống nhau, tùy thuộc vào việc thầy cúng tiếp xúc với thần linh, ma nhà nhanh hay chậm. Lễ cúng cứ tiếp tục cho đến khi cúng xong hết cho các gia đình.
* Ngày thứ ba của lễ cúng
- Phần cúng tiễn thần linh về trời: Phần này do một thầy cúng đảm nhiệm được gọi là cúng dê (Ủa nưng trì )
+ Chuẩn bị:
Thầy cúng làm ghế nhỏ 7 tầng (thể hiện 7 vía của người đàn ông) để thầy bước lên trời gặp đấng thần linh tối cao nhất.
Bàn thờ, dụng cụ cúng: Sử dụng nguyên của ngày hôm trước, đặt thêm 21 tờ giấy cắt hình chữ nhật.
Đại diện dòng họ dắt con dê đực vào giữa nhà, buộc lên lưng con dê tất cả lưỡi kiếm, con dao, khẩu súng bằng gỗ của các hộ gia đình.
Thầy cúng chuẩn bị 9 cờ 3 màu hình tam giác nhỏ, cắm 3 cờ nhỏ trên trán, 3 cái sau lưng, 3 cái đeo lên đầu con dê; một túi nhỏ đựng 2 kg gạo; một nồi nhôm loại nhỏ để nấu cơm; một cái nỏ cũ. Tất cả những vật dụng này buộc lại đeo trên lưng thầy cúng. Thầy cúng cắt 3 đôi dây hình nhân thế mạng bằng giấy trắng, mỗi dây 10 người.
+ Phần cúng:
Từ 7h 30’, đại diện dòng họ rót rượu mời thầy cúng, chúc thầy cúng thành công trong việc tiễn thần linh lên trời. Thầy cúng xin phép thần linh và thực hiện lễ cúng trong khoảng 2 tiếng liên tục.
8h 50’ thầy cúng cho phép thanh niên trong dòng họ dẫn dê và lọ đá ra cánh đồng. Cả đoàn người dắt dê và bê lọ đá đi về hướng Tây để chôn lọ đá, xua đi những điều xấu xa, vận hạn của gia đình, dòng họ. Sau khi chôn xong, họ mổ luôn con dê, nấu chín, tất cả những người có mặt cùng ăn thịt dê, uống rượu vui vẻ khi nào hết mới quay về nhà chủ cúng (mọi người quan niệm phải ăn hết toàn bộ con dê để xóa đi mọi rủi ro, đen đủi, không may mắn. Trong trường hợp không ăn hết được thì có thể mang về nhà mình nhưng tuyệt đối không được mang về nhà vừa tổ chức lễ cúng).
Tại gia đình chủ cúng đã mổ lợn, sắp cơm đầy đủ, đây là bữa cơm kết thúc lễ cúng. Chủ cúng, đại diện dòng họ ngồi mâm đầu để họp rút kinh nghiệm; Toàn bộ thành viên nam của dòng họ ngồi đông đủ để tâm sự, trao đổi kinh nghiệm trong lao động sản xuất.
Mọi kiêng kỵ sau lễ cúng cũng giống như lễ cúng dòng họ hàng năm.
          Kết luận
Lễ cúng dòng họ của người Mông tỉnh Sơn La là một nét văn hoá đẹp, mang bản sắc riêng, thể hiện ý chí ý nguyện, khát khao vươn lên trong lao động sản xuất; thể hiện tình làng, nghĩa xóm, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của cả dòng họ và giữa các dòng họ trong cộng đồng nhằm hướng tới cái thiện, cái hay, cái đẹp. Đó là một Lễ cúng không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Mông với mong muốn cả một năm dòng họ sẽ làm ăn phát đạt, tránh được tai nạn, thương tích trong lao động sản xuất. Nếu có bị thương tích, tai nạn thì sẽ không bị chảy máu gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng con người. Lễ cúng dòng họ có vị trí, vai trò quan trọng trong văn hóa của dân tộc Mông tỉnh Sơn La xứng đáng được cộng đồng người Mông tỉnh Sơn La cam kết bảo vệ, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 4036/QĐ-BVHTTDL ngày 21/11/2016.