Người Mông ở huyện Mộc Châu đang quy tụ cả 3 ngành Mông với 32 bản, tập trung tại các xã: Tân Lập, Đông Sang, Chiềng Sơn, Chiềng Khừa, Lóng Sập, Chiềng Hắc, Tân Hợp và thị trấn Nông Trường Mộc Châu.
Khèn là nhạc cụ độc đáo thể hiện tâm linh, tín ngưỡng truyền thống và là vật linh thiêng trong các nghi lễ, lễ hội của người Mông.
Người Mông có một câu chuyện truyền thuyết kể lại rằng: “Ngày xưa có hai vợ chồng sinh được sáu người con trai, người mẹ mất sớm rồi còn lại cha, cha nuôi nấng các con trưởng thành, rồi không bao lâu sau người cha cũng mất. Nhớ thương người cha, các con khóc nhiều đến khản cả cổ, không còn tiếng nữa. Thì mỗi người chặt 01 cây tre làm thành sáo để thổi cho cha nghe, thổi đến ngày thứ ba thì ai nấy đều không thổi được nữa, thì người anh cả bảo rằng gộp tất cả cây sáo vào một để thay nhau thổi cho cha nghe, khi 1 người thổi âm thanh vang lên, mang đủ 6 tiếng như 06 anh em nhớ cha mình. Từ đó mỗi khi buồn, vui cây khèn là bạn tâm tình, xua đi sự đau buồn, mang lại niềm vui. Trước đây 6 người thổi nay chỉ cần 1 người thổi vẫn vang đầy đủ 6 tiếng trầm bổng, huyền bí”. Sự tích cây khèn Mông là vậy và ra đời từ đó. Trải qua thời gian, cây khèn của người Mông được sử dụng trong các lễ nghi, ngày hội với ý nghĩa và giá trị quan trọng.
Nghệ thuật trình diễn dân gian của người Mông gắn với chiếc khèn. Khèn Mông do chính những người đàn ông chế tác. Với cây khèn của dân tộc mình, người chơi có thể thổi hơi ra, có thể hít hơi vào. Khèn cũng là đạo cụ múa có cấu tạo phù hợp với dáng khum người và các thế quay, nhảy. Nghệ nhân múa khèn với những bước nhún, bước đảo, bước quay hoặc vừa ôm khèn, vừa lăn mình trên đất tạo nên vũ đạo rất đẹp. Tiếng khèn dường như đã trở thành một phương thức để người Mông chuyển tải, thổ lộ những tâm tư nguyện vọng của mình,...Bắt nguồn từ phong tục, tập quán mà khèn Mông có rất nhiều chủ đề và bài bản. Với tiếng khèn vui, người Mông mời gọi bạn đi chơi xuân, gọi bạn xuống chợ, chúc nhau những điều may mắn,... còn khi buồn, tiếng khèn chậm và trầm, thường thổi trong đám ma để chia buồn cùng gia đình, để tiễn đưa người mất sang bên kia thế giới,… Tiếng khèn vui khiến người nghe có cảm giác hưng phấn, rạo rực, nhưng tiếng khèn buồn có thể khiến người nghe cảm thấy xúc động mạnh mẽ. Người Mông thường múa khèn khi có đám tang, đám giỗ hoặc trình diễn trong lễ hội. Hiện nay, múa khèn còn được dùng biểu diễn trong những dịp sinh hoạt văn hóa, văn nghệ tại địa phương. Tiếng khèn Mông thể hiện chất trữ tình đằm thắm, mượt mà, khỏe khoắn. Những âm thanh của loại nhạc cụ này mang vẻ đẹp tự nhiên của vùng cao bao la, hùng vĩ, nét tươi sáng và giản dị của tâm hồn người Mông.
Nghệ thuật Khèn của người Mông gắn liền với các lễ nghi truyền thống ở Mộc Châu như: Nào Sồng (ăn ước), cúng đá, cúng dòng họ, kiêng động rừng tổ chức vào tháng 7 âm lịch. Đặc biệt, múa và thổi khèn không thể thiếu được trong lễ tang của người Mông, cây khèn được sử dụng từ khi người ta tắt thở cho đến khi người chết đã được chôn cất chu đáo, vào ngày giỗ (từ 01-03 năm sau đám tang) để tiễn đưa linh hồn người chết, cảm ơn bà con đã đến chia buồn với gia chủ. Ngoài ra, sau năm 1945, Tết Độc lập 2.9 tại trung tâm thị trấn Mộc Châu được đồng bào hưởng ứng như một lễ hội lớn, thu hút rất đông người Mông trong khu vực và cả vùng Tây Bắc, Thanh Hóa, Nghệ An, các tỉnh Bắc Lào đến tham dự. Ngày nay, lễ hội này trở thành Ngày hội văn hóa các dân tộc Mộc Châu, chiếc Khèn Mông cũng được sử dụng trong các điệu múa, hội thi của lễ hội này.
* Cách chế tác cây Khèn Mông:
- Các bộ phận cấu thành cây khèn (khềnh/kềnh), gồm: Thân khèn; bầu khèn; đuôi khèn; ống khèn; lam khèn; lỗ khèn; đai khèn và lỗ thổi khèn. Cây khèn được chia thành 3 phần: Thân khèn, ống khèn, đai khèn.
- Chế tác cây khèn (khềnh/kềnh) gồm 8 công đoạn: Các công đoạn chế tác cây khèn (khềnh): (1) Chọn gỗ làm thân khèn; (2) Làm đai thân khèn; (3) Khoét lỗ thân khèn; (4) Chọn ống khèn ; (5) Đúc đồng làm lam khèn; (6) Cắt lam, chỉnh sửa, lắp vào ống khèn; (7) Uốn, dùi lỗ cho ống, lắp ống vào thân khèn; (8) Làm đai ống khèn.
- Nguyên vật liệu chế tác cây khèn (khềnh), gồm: Gỗ Pơ Mu trắng, đỏ hoặc gỗ cây thông đá, cây măng dê, vỏ cây đào rừng, lá đồng, bạc trắng, thuốc lào hoặc lá cây thuốc lào, tóc và vỏ con ve sầu (hoặc con záu), mỡ lợn, ống tre, que nứa.
- Dụng cụ chế tác, gồm: 02 con dao (1 to, 1 nhỏ); 02 dùi gọt (1 to, 1 nhỏ); khoan máy; khoan tay; 01 dùi dài đầu mũi tên để khoan đốt ống; 01 dùi nhỏ dùi lỗ ống thổi; dao cắt lam, cạo lam 2 đầu hoặc 2 cái; đá mài; đe, búa; dụng cụ đúc đồng.
* Cách sử dụng khèn (khềnh/kềnh)
- Khèn Mông vừa là một loại nhạc cụ đồng thời cũng là đạo cụ múa: Khèn Mông thuộc bộ hơi, âm vực 1, 5 quãng 8: (Là, Rê, Pha, Son, La, Đô, Rế). Theo cách thổi từ ngày xưa: Tay phải: ngón cái ống to; ngón trỏ ống 2; ngón giữa ống 3; ngón 4 và ngón út giữ cây khèn ở dưới cùng. Tay trái cũng vậy. Các ngón tùy theo bài để bịt và nhả. Đối với Khèn Mông khi ngón bịt lỗ âm mới kêu, bỏ ngón ra không kêu. Khi thổi, âm thổi ra hít vào đều được, khèn không thổi được những điệu có âm vực cao vượt 1,5 quãng 8. Khèn không thổi được những giai điệu nhanh, chỉ thổi tốc độ vừa phải. Đây là hạn chế của cây khèn Mông.
Khèn thổi đi đôi với múa, đã thổi khèn là không để đôi chân đứng yên. Không chỉ để múa khèn một người mà đến bốn người hoặc hơn, múa khèn với nhau chân đá rất đều và khỏe phù hợp với điệu khèn. Người Mông Trắng múa khèn thì đá chân nhau, còn người Mông Hoa múa khèn lại tự đá chân mình. Tìm hiểu Nghệ thuật khèn Mông ta thấy rõ ngôn ngữ múa ngẫu hứng mang đậm bản sắc văn hóa dân gian Mông, người múa thể hiện cảm xúc sáng tạo trong say sưa, thể hiện cảm xúc nội tâm mạnh mẽ.
Múa khèn Mông còn là tín ngưỡng Saman giáo - một tín ngưỡng phổ biến ở dân cư Mông. Đây là hình thức chuyên biệt có người chuyên nghiệp hành nghề, thường gọi là thầy cúng - những người được xem là có khả năng phù phép, đắm mình vào trạng thái hôn mê (lên đồng), trực tiếp giao tiếp với thần linh. Khi làm lễ, thầy cúng ngồi trên một tấm ghế dài, lắc lư đầu, tìm cảm giác váng vất để nhập đồng. Tấm ghế tượng trưng cho con ngựa thần. Nhờ con ngựa này thầy cúng mới có khả năng đi đến thế giới bên kia.
Nhiều khi tổ sư của thầy cúng lại đồng nhất với con ngựa - phương tiện đi lại của thầy cúng. Khi cúng hai cánh tay của thầy khép chặt vào thân, bàn tay để lên đùi, hai chân chụm lại, dùng sức bật của ngón chân nhún hai gót chân lên xuống theo nhịp gõ thanh la, đôi chân nảy lên rồi hạ xuống đều đều. Cái nhạc ngựa ở cổ tay cũng rung lên từng hồi theo nhịp nhảy. Khi bắt được hồn, những động tác phi ngựa của thầy chậm dần lại, diễn tả cảnh đưa hồn về thế gian.
Thầy cúng cũng rất am hiểu phong tục, tập quán và mọi luật tục của dân tộc mình, nên người Mông rất tín nhiệm họ. Nhạc ngựa ở cổ tay thầy chính là cái vòng lắc (chia nênh) các thầy cúng dùng để đuổi ma. Nó làm bằng sắt, có chừng 7 - 8 miếng sắt dẹt đục thủng như hình đồng xu, lồng vào một cái vòng sắt to chừng bằng chiếc đũa, uốn thành hình vòng tròn. Tiếng vòng lắc nghe gần giống tiếng nhạc. Nhiều nơi bà con gọi động tác lên đồng này là vớ nênh.
Âm thanh nếu so với khèn bè Thái, Lào thì khèn Mông có âm lượng lớn hơn, âm sắc chắc hơn. Nhưng nhược điểm là do ống quá ít, không có khả năng diễn tấu chuyển điệu. Tuy rằng khèn Mông có thể tấu được nhanh, chậm, dễ thổi âm lượng lớn, có một phần khó thổi âm lượng thật nhỏ.
Học thổi khèn Mông rất khó, dù học nhiều cũng khó có thể am hiểu hết được những giai điệu của khèn. Để trở thành một người thổi khèn giỏi, người con trai Mông phải tập khèn từ 12 - 13 tuổi, có thân hình khỏe, mềm dẻo, nhịp nhàng, nhưng quan trọng hơn cả là cách lấy hơi, rèn khí để hơi được sâu, được dài.
Học thổi khèn và múa khèn rất khó, học nghe khèn Mông cũng không dễ. Mỗi bài khèn Mông có 6 đoạn, cũng có bài chỉ có 3 - 4 đoạn. Một bài khèn Mông bao gồm những câu: (1) Hoa - khèn (pa - khênh) là những câu nhạc phụ giữ vai trò "hoa lá", không có lời ca tương ứng; Hoa - khèn có giai điệu, nó cũng như những nét nhạc không lời, nó cũng như phần dạo nhạc mở đầu và kết thúc một bài ca; (2) Hạt - khèn là những câu nhạc chính, giữ vai trò "nhân cốt" có lời ca tương ứng, có nội dung cụ thể; Hạt - khèn rất phong phú, học đến đâu biết đến đó. Người thổi khèn có tài, không chỉ ở chỗ thổi luyến láy, tô điểm nốt nhạc khèn cơ bản hay không, mà còn ở chỗ có biết thổi nhiều hạt - khèn hay không? Trong bài hát khèn buổi sáng: "Trời sắp sáng/ gà trống dậy/ Con gà trống dậy đi trước/ con vịt dậy đi sau/ Mặt trời sắp mọc/ chiếu sáng đỉnh trời/ Mặt trăng lấy cái lược vàng cho con gà chải/ Con gà không biết chải/ răng lược ngược lên trời, lưng lược cài vào tóc..."
* Các làn điệu thổi và múa của Khèn (khềnh/kềnh) Mông trong lễ tang
Khèn Mông giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong tín ngưỡng của người Mông, điều này thể hiện qua đám tang của họ. Khi trong làng có người qua đời, chủ nhà thường mời các thầy khèn có uy tín, hiểu nhiều, biết rộng đến giúp. Trong mỗi đám tang, gia đình tang chủ có thể mời hai hoặc bốn thầy khèn. Các nghệ nhân thổi khèn đóng vai trò như thầy cúng và các nghi lễ đều được thực hành thông qua tiếng khèn.
Tùy vào thời gian diễn ra đám tang mà các nghệ nhân thổi những bài khèn khác nhau. Họ có thể thổi khèn theo giờ (giờ ăn cơm trưa và tối), liên tục từ hai đến bốn ngày. Một bài khèn kéo dài từ 15 - 30 phút. Những lúc nghỉ ngơi hay khi có người đến viếng, họ lại thổi một bài riêng cho phù hợp với hoàn cảnh.
Đám tang của người Mông không buồn bã, thê thảm như đám tang của một số tộc người khác. Khi thầy trống, thầy khèn múa thì người thân, cùng người đến dự đám tang cũng nhảy múa theo, bởi người Mông quan niệm, nếu không có tiếng khèn thì linh hồn người chết sẽ không về được với tổ tiên. Những động tác múa của thầy khèn trong đám ma là đi khom, xoay vòng xung quanh quan tài, vừa thổi khèn vừa đi. Thầy dùng khèn để lạy người chết. Thổi được 20 phút thì gia đình lại rót rượu mời thầy. Có thể vì chút hơi men mà tiếng khèn càng thêm da diết.
Các làn điệu khèn của người Mông có thể thổi 1 mình hoặc nhiều người vừa thổi, vừa múa tùy theo từng làn điệu, không gian, ngữ cảnh trong đám ma.
- Những bài khèn bắt buộc để gia đình chuẩn bị cho người chết về thế giới bên kia: Đối với người đã được làm lễ đặt tên trong dòng họ (khi mới sinh ra) thì đều được tổ chức đám tang và đều được thổi khèn trong đám tang. Còn những trường hợp chết ngoài nhà như: do tai nạn, tự tử, ngã suối… gia đình sẽ mang người chết vào nhà bằng cửa phụ hoặc tháo vách nhà, sau đó chủ nhà, con cháu đặt ở giường ngủ trong buồng, con cháu rót nước mời uống, hỏi xem ốm đau thế nào? Không thấy trả lời, con cháu khóc to, lúc này mới chính thức báo gia đình có người chết.
+ Bài khèn chỉ đường cho người chết về với tổ tiên (kềnh khua kê)
Mình chết thật hay mình chết giả?
Mình chết giả thì hãy dậy để cùng mọi người đi làm ăn,
Mình chết thật thì hãy quay mặt lại.
Lắng tai nghe chí mủa (Txiv muam) hát ba mươi sáu bài.
Chỉ đường, chỉ lối để biết về với tổ tiên.
+ Bài khèn tiễn người chết (Kềnh tu xi/Kềnh chang/Kềnh Kha kế/ Zê Nênh): Làn điệu khèn đầu tiên khi trong nhà có người chết. Làn điệu này để tiễn người chết, chỉ dẫn đường cho người chết về được với tổ tiên, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn của gia chủ với người chết, đồng thời báo cho các ma nơi người mất ở biết là người mất đã chết để các ma cho phép người mất đi về với tổ tiên. Người thổi đi thường, cuối cùng hướng về chỗ người chết nằm (ngành Mông Hoa, Mông Trắng thổi báo tắt thở cho các ma trong nhà, ra ngoài cửa, sau đó về chỗ người chết)
+ Bài khèn mời người chết lên ngựa (Kềnh Chê Nênh): Theo quan niệm của người Mông khi đi về thế giới bên kia sẽ để người chết lên nênh, tượng trưng cho con ngựa, do vậy mà thầy khèn thổi bài khèn này với ý nghĩa kể cho người chết biết quá trình làm ngựa và giao ngựa cho người chết để đi về thế giới bên kia. Người thổi đi lên cái nênh, dùng chân chỉ vào nênh, sau đó người nhà sẽ úp nênh xuống 03 lần, sau đó khúc 2 mới đặt người mất lên cái nênh, sau đó đi về phía cái trống.
+ Bài khèn mời ăn sáng (Kềnh nào say/no say): Làn điệu được thổi vào lúc tờ mờ sáng để mời tất cả những người được nhờ đến giúp đám tang về ăn sáng. Người thổi quay tròn tại chỗ, quỳ, đi quanh chiếc trống, đi lùi.
+ Bài khèn mời ăn trưa (Kềnh nào su/no su): Làn điệu này thổi vào buổi trưa để mời tất cả những người được nhờ đến giúp đám tang về ăn trưa. Người thổi quay tròn tại chỗ, quỳ, đi quanh chiếc trống, đi lùi.
+ Bài khèn mời ăn tối (Kềnh mo tu xua/chơ tu sy dùa/no mo): Làn điệu này thổi vào chập tối để mời tất cả những người được nhờ đến giúp đám tang về ăn tối. Người thổi quay tròn tại chỗ, quỳ, đi quanh chiếc trống, đi lùi.
+ Bài khèn giao vật nuôi cho người chết (Kềnh cho tra): Theo quan niệm của người Mông, người chết tiếp tục sống ở thế giới bên kia và cũng phải có vật nuôi phục vụ cuộc sống. Do đó, khi có người chết phải thịt trâu, bò, lợn cho người chết mang đi. Nhưng để người chết mang được những con vật này đi cùng thì phải thổi Làn điệu Cho tra (Làn điệu giao vật nuôi). Làn điệu này giao vật nuôi, đồng thời hướng dẫn người chết cách chăn dắt đi đến nơi, cách sử dụng vật nuôi, được thổi vào ban ngày trước khi mổ lợn, trâu, bò (đối với mổ lợn chỉ một số con lợn to mới thổi làn điệu này). Đối với việc mổ trâu, bò: người thổi đi xung quanh con trâu, bò. Sau đó vào trong nhà. Đối với việc mổ lợn, người ta chỉ thổi trong nhà. Lúc thổi khèn phải lấy sợi chỉ (tượng trưng cho dây dắt con vật) nối từ con vật đến tay người chết.
+ Bài khèn giao tiền cho người chết (Kềnh Lía tía - Kềnh đốt giấy): Theo quan niệm của người Mông, giấy chính là tiền của người chết. Đường đi gặp tổ tiên rất dài và gian nan, vất vả, người chết cần có tiền để sử dụng; đến nơi cũng phải có tiền để mua ngựa cưỡi, trâu cày... Do đó, khi đốt giấy là lúc giao tiền cho người chết, phải thổi làn điệu này để giao tiền, hướng dẫn sử dụng tiền trên đường đi và cả khi đã đi đến nơi. Làn điệu này được thổi trong nhà cả ban ngày và ban đêm, người thổi đứng một chỗ, hướng về nơi đốt giấy.
+ Bài khèn tiễn người chết (Kềnh sang cớ): Bài khèn ngày thầy khèn sẽ mời người chết đi và hẹn người chết “Ông (bà) cần cái gì thì về chỗ hẹn để con cháu mang gửi cho ông (bà), còn chỗ khác thì tôi đã dấu hết vết chân”, thầy khèn chui dưới nênh quay về. Người thổi đi khom quanh cái trống, vừa đi vừa thổi trong nhà và đi đến chỗ chôn người chết, thổi khi đưa người chết đi chôn.
+ Bài khèn chỉ dẫn người chết đi đúng đường (Kềnh tịa đồng/ Kềnh tu đằng/Kính bia): Theo quan niệm của người Mông, người chết mới về với tổ tiên còn rất lạ lẫm, lại có rất nhiều đường để chọn đi trở thành người tốt và đi trở thành người xấu. Nên trước ra đi phải thổi làn điệu này để tiễn người chết, dặn dò người chết đi đúng đường, không bị lạc, đi đúng đường để trở thành người tốt dặn dò con ngựa của người chết đưa người chết đi đúng đường về với tổ tiên. Làn điệu này được thổi trong nhà, lúc chuẩn bị đưa người chết ra khỏi nhà, người thổi đi xung quanh trống hướng về người chết hướng ra cửa chính quay về nhảy quanh trống.
- Những bài khèn làm vui, chia buồn cùng gia chủ và gia chủ cảm ơn thầy khèn
+ Bài khèn thổi ban ngày (Kềnh đua nu): Làn điệu này thổi vào ban ngày nhằm mục đích làm cho người nhà bớt đi nỗi buồn. Người thổi đi bình thường xung quanh chiếc trống, quay tròn tại chỗ và một số động tác khác.
+ Bài khèn thổi ban đêm (Kềnh Mo tu): các làn điệu này làm cho người nhà bớt đi nỗi buồn; cảm giác thời gian về đêm bớt dài. Người thổi khèn thực hiện đủ các động tác nhảy khèn như: Đi xung quanh chiếc trống, quay tròn tại chỗ, đi lùi, vừa đi vừa đá chân phải, sau đó đá chân trái về phía trước... Hầu hết các động tác nhảy khèn nhằm làm vui cho gia chủ và mọi người, đều được thực hiện về ban đêm. Số lượng người tham gia nhảy khèn vào ban đêm không giới hạn, cả người biết thổi khèn và không biết thổi khèn đều có thể tham gia.
+ Bài khèn xin cơm cho anh em đến giúp ăn (Kềnh tờ nhú bua): Khi có người chết, chỉ nhờ 2 thợ khèn đến giúp. Nhưng do thời gian thổi khèn cho một đám tang kéo dài và phải thổi liên tục, rất mệt mỏi. Do đó, hai thợ khèn này phải nhờ nhiều người biết thổi khèn về giúp mình. Để tri ân những người đến giúp mình, người thợ khèn thổi làn điệu Tờ nhú bua để xin cơm cho những người giúp mình ăn. Họ thường thổi vào buổi trưa hoặc đêm khuya. Người thổi đi xung quanh trống sau đó vào trong nhà bếp đứng một chỗ và tiếp tục thổi.
+ Bài khèn kết nối (Kềnh sơ): Là làn điệu đầu tiên phải thổi sau mỗi lần nghỉ ngơi. Mục đích làm vui cho chủ nhà và mọi người. Người thổi khèn đi xung quanh trống, thổi vào ban ngày.
+ Bài khèn đuổi trừ tà ma (Kềnh chú/Kềnh khau): Theo ông cha kể lại, ngày xưa các thế lực thù địch lợi dụng khi người Mông tổ chức đám tang, để đến cướp tài sản, vật nuôi. Vì vậy, làn điệu này được thổi vào ban ngày nhằm mục đích tập hợp lực lượng chống lại các thế lực thù địch. Lúc đầu người thổi khèn ở trong nhà và liên tục đổi hướng về 4 góc nhà, mỗi góc nhà nhảy 3 bước theo hướng từ giữa nhà ra góc nhà. Sau đó ra ngoài thổi và đi xung quanh nhà. Khi người thổi đi xung quanh nhà, có một người đàn ông khỏe mạnh cầm một chiếc gậy được vót nhọn đầu đi trước, người thổi khèn đi sau. Người thổi đến mỗi góc nhà thì nhảy 3 bước (một chân đá về phía trước) theo hướng từ trong nhà ra ngoài. Mỗi góc nhà đá một chân khác nhau (chân phải-trái-phải-trái), khi về đến cửa chính cả 2 người đều nhảy 3 bước theo hướng trong nhà ra ngoài. Một số ngành Mông, khi thổi đi xung quanh nhà có rất đông người (cả già, trẻ) đi nhảy cùng, thể hiện sức mạnh đoàn kết chống lại các thế lực thù địch. Đối với ngành Mông trắng, khi thổi Kềnh chú, đi theo sau thầy khèn còn mang theo cái nỏ, thổi ống tre. Ngành Mông đen của bản Căng Tỵ, xã Chiềng Khừa, đi theo sau thầy khèn là người thổi tù và bằng sừng trâu.
+ Bài khèn đón khách (Kềnh tò khua): Để thể hiện lòng hiếu khách, làn điệu này được thổi vào ban ngày để chào đón mỗi khi có đoàn khách chính thức đến (khách chính thức là khách được cho người đến tận nhà để mời đến). Làn điệu này còn có ý nghĩa dẫn đường cho khách từ ngoài vào nhà, nơi đặt các lễ vật do khách mang đến, nơi đặt người chết để khách đến thể hiện tình cảm, thương nhớ. Người thổi đứng trước cửa chính hướng ra ngoài thổi. Cùng lúc đó gia chủ và anh em ruột quỳ trước cửa đón khách. Khi khách đến nâng chiếc khèn lên thì quay lại thổi về phía người chết theo hướng khách đi.
+ Bài khèn dẫn khách (Kềnh ua khua): Làn điệu do thầy khèn đi cùng đoàn khách chính. Ý nghĩa là đưa hương và giấy cho người mất, thể hiện tình cảm thương nhớ của người khách đến. Thầy khèn đi cùng đoàn khách chính, thổi đi từ bên ngoài vào trong, sau đó thổi xung quanh cái trống, thổi hướng về lễ vật đoàn khách mang đến để giao cho người mất.
+ Bài khèn làm khách/đưa khèn cho khách thổi: đối với người Mông Trắng, thầy khèn làm khách sẽ thổi ngay sau thầy khèn của gia đình người chết thổi; người Mông Hoa có thêm kềnh để đưa khèn cho thầy khèn đoàn khách thổi. Khi đoàn khác vào nhà và ổn định, thầy khèn của gia đình người chết sẽ thổi trước cái trống ở giữa nhà, với ý nghĩa đưa khèn cho đoàn khách chính thổi, đồng thời đưa giấy, hương, rượu cho khách. Lúc này thầy khèn bên khách chính có thể thổi hoặc không thổi (nếu không thổi thì giao khèn lại cho gia chủ).
+ Bài khèn chia buồn với gia chủ vào ban ngày (Kềnh kỳ/ Đí kềnh): Làn điệu này được thổi ban ngày để chia buồn với gia chủ, bớt đi nỗi đau buồn. Người thổi đi xung quanh trống, có thể nhảy một số động tác đơn giản.
+ Bài khèn làm cho gia chủ vui chủ yếu vào ban đêm (Kềnh plua/ Kềnh tua lua): Trong các làn điệu khèn nhằm làm cho gia chủ vui thì Làn điệu Kềnh tua lua được sử dụng nhiều nhất. Làn điệu này chủ yếu thổi để anh em vào nhảy cùng cho vui. Họ thổi cả ban ngày và ban đêm, nhưng thổi về đêm nhiều hơn. Người thổi có thể nhảy tất cả các động tác của khèn Mông như: Đi xung quanh chiếc trống, quay tròn tại chỗ, đi lùi, vừa đi vừa đá chân phải sau đó đá chân trái về phía trước, đi chân trước, chân sau, nhảy ếch…
+ Bài khèn làm cho gia chủ vui cả ban ngày và ban đêm (Kềnh xu plua/Kềnh sênh): Làn điệu này được thổi vào cả ban ngày và ban đêm, chủ yếu làm vui cho gia chủ (đặc biệt, làn điệu này có thể thổi đi chơi khi không có đám ma). Người thổi đi xung quanh chiếc trống, đi ngoài đường, ra ngoài sân và có thể nhảy một số động tác.
+ Bài khèn hướng dẫn người chết về thế giới bên kia (Kềnh xú su, xú plua): Làn điệu này được thổi vào ban ngày nhằm hướng dẫn người chết về với thế giới bên kia. Người thổi đi xung quanh chiếc trống.
+ Bài khèn kết thúc từng phần của đám ma (Kềnh là): Được thổi cả ban ngày và ban đêm, người thổi đi xung quanh chiếc trống hoặc đứng một chỗ.
+ Bài khèn làm cho gia chủ vui cả ban ngày và ban đêm (Kềnh nạ chanh, Kềnh my chanh, Kềnh nạ sua tý, Kềnh my sua tý): chủ yếu được thổi cả ban ngày và ban đêm với mục đích làm vui cho gia chủ. Người thổi đi xung quanh chiếc trống hoặc nhảy một số động tác đơn giản.
+ Bài khèn đòi rượu (Kềnh tài chớ hàu): Thầy khèn sẽ thể hiện tài thổi khèn của mình, đã làm hết trách nhiệm, kết thúc bài khèn người nhà và trưởng họ sẽ mời rượu các thầy khèn. Thổi vào đêm trước khi mang người chết ra ngoài bãi tha ma về với tổ tiên. Trước khi thổi kềnh đòi rượu, gia đình chuẩn bị 01 bàn đặt lễ, mời đại diện Trưởng bản, 01 người bên ngoại, 01 người bên nội. Những đại diện này sẽ ngồi quay lưng về phía người chết, quay mặt ra cửa, còn họ hàng và con cháu đứng ở dưới. Những người họ hàng này sẽ hỏi 03 người này xem gia đình đã chuẩn bị đầy đủ lễ vật hay chưa (bò, quần áo, búa…). Sau đó hỏi người chết có nợ ai không? nếu nợ ai thì gia đình phải mang trả, hỏi người chết xem có ai nợ người chết không? Ai còn nợ người chết cái gì thì phải mang trả trước khi người chết về với tổ tiên. Lúc này các thầy khèn (2-4 thầy khèn) sẽ thổi xung quanh người đại diện và gia đình người chết, Trưởng bản sẽ hỏi to, làm cho thầy khèn không tập trung, xem thầy khèn có làm hết trách nhiệm, có vượt qua thử thách không? Sau khi hỏi xong thì hai bên nhất trí thầy khèn đã làm hết trách nhiệm của mình.
+ Bài khèn giao thịt trâu, thịt bò cho các thầy khèn (Kềnh Bán sóc): Bài khèn này có ý nghĩa, giao thịt trâu, bò cho các thầy khèn để cảm ơn đã giúp, giao vào lúc sau khi mổ trâu, bò giao cho người chết. Gia đình người chết sẽ chuẩn bị 1 ít thịt tươi treo lên cái trống, bài khèn này có ít nhất 2, 3 người thổi, các thầy khèn sẽ bắt đầu thổi từ phía người chết sau đó đi xung quanh bãi đặt người chết (đi qua trống, cọc buộc trâu), nếu người chết là người con trai đi từ phải qua trái 5 vòng, từ trái qua phải 4 vòng, con gái (phải sang trái là 4, trái sang phải là 3). Bài khèn này, thầy khèn, chân phải đi trước, chân trái nhấc theo sau, hết 1 đoạn khèn, các thầy khèn sẽ dừng lại quay tại chỗ 3 vòng, trái qua phải 3 lần, phải qua trái 3 lần.
+ Bài khèn mời người chết về nhận mâm thịt (Kềnh ua chị): Khi mổ trâu bò xong, lấy đầu, chân, tim, đuôi, lưỡi, gan, phổi… của trâu, bò bày ra thành một mâm dài. Thổi làn điệu Ua chị để mời người chết về nhận mâm thịt của mình. Làn điệu này được thổi ngoài trời, người thổi đứng hướng về phía mâm thịt.
- Những bài khèn để làm giỗ, làm ma khô cho người chết
+ Bài khèn làm vía (Kềnh ua vang/Ua ply): Làn điệu này được thổi để gọi được hồn người chết về nhà. Đồng thời giải thoát cho người chết về với thế giới bên kia được yên ổn, không quay lại gây ốm đau cho con cháu. Làn điệu này được thổi vào ban ngày, người thổi đứng ngoài trời thổi, sau đó đi vào trong nhà và đi xung quanh trống.
+ Bài khèn làm giỗ (Kềnh nhủ đăng): Người Mông quan niệm: khi người chết ở thế giới bên kia, nếu con cái có điều kiện sẽ làm kềnh nhủ đăng hoặc khi gặp khó khăn về ăn uống, nhà ở, vật nuôi… thì người chết về đòi con cháu những thứ đó bằng cách gây ốm đau cho con cháu hoặc báo mộng cho người con trai cả.
Đám giỗ người Mông được tổ chức 02 lần: lần thứ nhất sau khi chôn người chết được 13 ngày, tổ chức đám giỗ nhỏ, chỉ cúng một con gà, không mời thợ khèn; lần thứ hai: sau đám tang 1 năm (trước đây là 3 năm), vì sau khi đám tang, gia chủ cũng phải chuẩn bị cho đủ điều kiện để tổ chức đám giỗ và cũng là để tiễn linh hồn người chết về với tổ tiên, từ đó không cúng giỗ nữa, gia đình mổ lợn tổ chức đám giỗ, mời thầy khèn về thổi, múa để mời linh hồn người chết về nhận lễ và tiễn linh hồn người chết về với tổ tiên. Làm giỗ lần thứ 3 (Kềnh nhủ đăng) như đã nêu ở trên.
* Các hình thức thể hiện Nghệ thuật Khèn trong các sinh hoạt khác của người Mông.
Cây khèn vừa là nhạc cụ, vừa là đạo cụ để múa, với cây khèn độc đáo này, người chơi có thể thổi hơi ra, có thể hít hơi vào. Khèn cũng là đạo cụ múa có cấu tạo phù hợp với dáng khum người và các thế quay, nhảy. Nghệ nhân múa khèn với những bước nhún, bước đảo, bước quay hoặc vừa ôm khèn, vừa lăn mình trên đất tạo nên vũ đạo rất đẹp. Tiếng khèn dường như đã trở thành một phương thức để người Mông chuyển tải, thổ lộ những tâm tư nguyện vọng của mình,...
- Khèn trong lễ hội, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ
Đối với đồng bào dân tộc Mông, trong những dịp lễ hội, Tết đến xuân về không thể thiếu tiếng khèn, cùng với những trò chơi dân gian. Đây được coi như là linh hồn của người Mông gửi gắm và thể hiện tiếng lòng của mình với bạn bè, với cộng đồng, với thiên nhiên, núi rừng và thể hiện giá trị văn hóa, làm nên bản sắc độc đáo riêng của người Mông.
Các bài biểu diễn múa khèn bao giờ cũng có nội dung vui nhộn, mang ý nghĩa chúc tụng và mời bạn bè cùng tụ họp, vui chơi. Tiếng khèn làm quên đi những khó khăn, vất vả sau một năm chăm chỉ lao động mệt nhọc, góp phần gắn kết tình bạn, tình yêu, tình làng xóm với nhau.
Dường như để chống chọi, thích nghi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, tiếng khèn của người Mông cũng mạnh mẽ, kiên cường như cuộc sống của họ. Tiếng khèn ngấm vào máu thịt, như là phần hồn của người Mông. Người thổi được khèn và biết múa khèn thường đã trải qua một quá trình lao động nghệ thuật bền bỉ, công phu, kiên trì. Bởi khi vừa thổi vừa múa đòi hỏi phải sử dụng nhiều động tác vô cùng nhuần nhuyễn.
Động tác múa khèn rất đa dạng, phong phú: múa nhảy đưa chân, quay đổi chỗ, quay tại chỗ, vờn khèn, lăn nghiêng, lăn ngửa, múa ngồi xổm, đi tiến, đi lùi theo bốn hướng, mỗi bước tiến, bước lùi làm sao chỉ để chân này chạm gót chân kia. Động tác cơ bản là khom lưng, quay hất gót tại chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần theo hình xoắn ốc…, với tốc độ càng nhanh càng điêu luyện. Đối với các bài khèn vui chơi thì động tác nhảy, múa mãnh liệt, phóng khoáng và khó hơn, như lăn nghiêng, lăn ngửa, đá gà, đá ngựa, nhảy ngồi xổm, tay nọ vỗ vào chân kia, tay kia vỗ vào chân nọ, tiếng vỗ phải kêu, mà tiếng khèn vẫn không dứt.
Nghệ thuật Khèn của người Mông còn thể hiện tính cố kết cộng đồng, tinh thần đoàn kết trong đời sống cộng đồng. Tiếng khèn ngấm sâu vào tâm hồn người Mông, thân quen như thắng cố, mèn mén, rượu ngô hay tất cả những gì thân thuộc nhất đã gắn bó với họ từ lúc sinh ra.
Bên cạnh đó, nghệ thuật Khèn của người Mông cũng chứa đựng những sáng tạo mang tính khoa học độc đáo, được biểu hiện qua tiết tấu đa dạng, biến hóa khi thổi khèn kết hợp với vũ điệu uyển chuyển, nhịp nhàng khi múa.
Người Mông quan niệm: Là con gái Mông phải biết may vá, dệt vải và thêu thùa. Là con trai Mông phải biết thổi khèn và múa khèn. Vì vậy con trai Mông ngay từ nhỏ đã được người cha dạy cho cách thổi khèn và múa khèn. Nhưng tiếng khèn có hay, múa có đẹp không chỉ nhờ vào năng khiếu của người con trai Mông mà còn cần đến sức khỏe cùng sự dẻo dai tập luyện chăm chỉ mỗi ngày của người đàn ông.
Khèn không chỉ riêng có các chàng trai Mông thổi và múa mà các chàng trai còn múa cùng với các thiếu nữ Mông. Múa đôi trai gái thường đá gót chân vào nhau, lướt đều và quay đổi chỗ cho nhau.
Ngày nay, cùng với sự phát triển và hội nhập giữa các nền văn hóa, các loại hình nhạc cụ dân tộc khèn Mông không chỉ đơn thuần đóng vai trò là nhạc cụ riêng của người Mông mà đã và đang trở thành nhạc cụ yêu thích chung của các dân tộc. Khèn Mông ngày nay không chỉ sử dụng trong đám ma, đám cưới, lễ hội mà khèn Mông còn được các chàng trai Mông biểu diễn khi xuống chợ. Thổi và múa khèn không chỉ thể hiện sự tài hoa, khéo léo của người đàn ông Mông mà qua đó còn thể hiện sức sống mạnh mẽ, ý chí vươn lên, tinh thần thượng võ của người Mông.
Mỗi bài khèn có một nội dung phù hợp với thơ, với chuyện kể dân gian: kể bước đường di cư của tổ tiên, nói lên cuộc đấu tranh lịch sử của các anh hùng dân tộc, hoặc ca ngợi cuộc sống tươi đẹp của người Mông. Khèn là một nhạc cụ lâu đời (trống, chiêng, khèn... xuất hiện từ thời bộ lạc).
- Múa khèn trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ
Múa khèn mô phỏng các bước nhẩy khéo léo của trò chơi chọi chim hoạ mi, các cú đánh của gà trống, các động tác xua đuổi thú dữ, các hành động chống lại sự xâm chiếm của các tộc người khác, với nhiều động tác khỏe mạnh, đẹp mắt. Người ta thống kê được 33 động tác, tổ hợp múa khèn như: nhảy đưa chân, nhảy lướt, quay đổi chỗ, nhún chuyển trọng lượng, nhảy ngang đập chân, bước trườn, bước lượn, ngoáy chân, đánh chân tại chỗ, đánh chân di động, vờn khèn, quay tại chỗ, quay di động, quay nhích gót, quay cầu, quay lót, chọi gà, đá hất chân,...
Có thể từng chàng trai vừa thổi, vừa múa hoặc 1 nhóm vừa thổi và múa, có thể nhiều chàng trai Mông cùng nhau múa khèn trên bãi cỏ, đất bằng phẳng với những vũ đạo đẹp mắt, những bước nhún, bước đảo, bước quay, bước trườn hoặc vừa ôm khèn vừa lăn mình trên đất. Ngoài ra có nhiều nghệ nhân có trình độ múa khèn điêu luyện, biểu diễn nhiều mô-típ siêu việt, độc đáo: múa khèn trên một tảng đá tai mèo, hoặc nhiều tảng đá, trên gốc cây lớn cưa bằng, trên 4 cọc trồng hình vuông hay trên cây gỗ tròn bắc qua suối.
Động tác múa khèn phong phú, đa dạng. Trong đó, mô-típ chủ đạo là quay hất gót tại chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần theo hình xoáy ốc. Các tổ hợp múa độc đáo và có độ khó cao, yêu cầu cả đầu, cổ, mình, chân, tay phải thực hiện theo những luật động khác thường. Hình thức tạo hình luôn chuyển động sang nhiều tư thế đẹp rất cân đối vững chắc, có thể trọng lượng dồn lên hai chân hoặc một chân song động tác luôn luôn mở thể hiện sức mạnh, tài khéo léo của các chàng trai. Đây cũng là dịp để các chàng trai đua tài, thi sức mạnh, độ khéo léo để mê hoặc các cô gái đến xem. Một điểm đáng lưu ý dù ở tư thế nào, động tác nào thì vẫn phải thổi khèn các đoạn nhạc thật hay như lời thủ thỉ tâm sự, hoặc lời thách đố đối phương thi tiếp.
Người trình diễn ngồi kiễng trên hai gót chân, đầu gối khép sát nhau, hay tay ôm lấy khèn các ngón tay đặt trên các lỗ của khèn, thân trên nghiêng cúi sang phải, hai chân vừa nhẩy nhỏ ở ngồi, vừa quay theo chiều phải nhiều vòng theo phách 1, 2 tại chỗ thân giữ chắc. Sau đó, trên đà quay nhịp chân trái bật tại chỗ hất chân ra phía trước, trọng tâm dồn sang chân phải, nhịp 2 thu chân trái về bật chân phải ra trọng tâm dồn sang chân trái, xoay tại chỗ.
Nhảy 2 bước bằng chân phải và chân trái sang hướng chân phải khi nhẩy hai chân đều chùng xuống thấp, quay xoáy theo chiều phải kết thúc thế ngồi chân trái làm trụ kiểu gót, chân phải xếp ở đằng trước.
Khi đứng lên chân trái dậm nhẩy tại chỗ, quay xế sang trái, đồng thời chân phải co lên gập về đằng sau, khép gối. Chân phải đặt xuống đồng thời đá vào chân trái bị hất về đằng trước cao 450 rồi tiếp tục cao nữa và đá vòng chân từ đằng trước quay về bên trái ra đằng sau.
Các chàng trai Mông múa khèn với các vũ điệu đẹp, tài hoa, dũng mãnh, các cô gái trong áo váy mới súng sính, điệu đà cầm chiếc khăn voan mỏng, chiếc ô nhỏ màu sắc hòa vào điệu nhảy, váy hoa bồng bềnh theo nhịp bước, lúc uyển chuyển, lúc mạnh mẽ như bản chất của người Mông có sức sống mãnh liệt, được nhân dân trong, ngoài nước yêu thích ngưỡng mộ.
- Nhảy khèn trong các lễ hội
Nhẩy khèn bao gồm 3 đoạn nhẩy khác nhau: ban đầu người thổi khèn chính sẽ vừa thổi, vừa múa ra để mời mọi người, sau đó một tốp múa theo sau bước một bước và nhún dừng lại nhịp 1, 2 khi đội múa đã ổn định đội hình thì các khèn khác tiếp tục dẫn đội múa khác tiếp tục đi ra
Người thổi khèn chính chuyển nhạc và quay đổi chỗ vào trong vòng tròn tiếp đến người thổi khèn 2, khèn 3….Đoạn múa 2 bắt đầu
Vòng tròn ở ngoài nắm tay nhau bắt đầu nhẩy dạo chân phải làm trụ, chân trái co nhẩy sang trái một bước bằng vai, tiếp đến đổi trọng tâm chân trái làm trụ chân phải co nhẩy về bên phải theo nhịp 1,2,3. Thế múa này dài hay ngắn tuỳ thuộc vào tính chất của buổi lễ ngày hôm đó. Sau đó toàn vòng chuyển động đi từ phải sang trái với bước đi thường đến nhịp 3 thì chân phải hất cao chân và quay trở về bên phải, tiếp đến chân phải làm trụ, chân trái hất gót nhẩy quay tại chỗ thật nhanh, rồi trở lại tư thế ban đầu. Tổ hợp múa này rất phức tạp đòi hỏi những người múa phải linh hoạt nhanh nhẹn liên tục đổi động tác, hướng chuyển động, lúc cao trào biên độ nhanh, mạnh, dứt khoát trông rất sinh động và đẹp mắt.
Tổ hợp nhẩy khèn tuân thủ theo nguyên tắc bước, nhẩy theo những con số rất kỳ lạ và huyền bí nhẩy 3 bước, đi 3 bước và quay 2 vòng, nghỉ 1 nhịp phải chăng là 3 bước nhẩy tượng trưng cho 3 thế giới của người Mông: Tổ tiên, con người và âm phủ, 3 bước đi là 3 việc quan trọng của người nông nghiệp là trồng cây, chăm bón, thu hái, 2 vòng tượng trưng cho ngày và đêm, âm và dương, nếu cộng tất cả các bước nhảy thì là 9 bước là con số người Mông cho là con số thiêng.
Đến đoạn 3 các đội hình múa chuyển động sang trái, phải mọi người nắm tay nhau cùng bước theo nhịp 1,2,3 đến nhịp 4 cùng hất chân cao sau đó quay trở lại về vị trí ban đầu và nhẩy xoay tại chỗ và lại tiếp tục di chuyển.
Nhẩy khèn Mông là một điệu múa đặc sắc thể hiện sức mạnh, tình đoàn kết gắn bó của cộng đồng dân tộc Mông.
* Giá trị của Nghệ thuật Khèn Mông
- Về mặt tâm linh: Khèn là nhạc cụ độc đáo thể hiện tâm linh, tín ngưỡng truyền thống và là vật linh thiêng trong các nghi lễ, lễ hội của dân tộc Mông. Người Mông quan niệm chết là về với thế giới bên kia, ở đó, con người vẫn tồn tại, vẫn có một đời sống bình thường… Sau khi đã trọn đời nơi trần thế, con người trở về với tổ tiên. Họ quan niệm nếu không có tiếng khèn, điệu múa khèn thì linh hồn người chết sẽ không về được với tổ tiên. Các bài khèn để an ủi người chết, động viên người nhà, tiễn đưa người chết về với tổ tiên. Hướng dẫn cho linh hồn người chết chọn đường đi về với tổ tiên để làm con người tốt ở thế giới bên kia. Họ tiễn đưa người chết với đầy đủ các vật dụng, gia súc để người chết yên tâm ở thế giới bên kia, sống tiếp kiếp sau, không quay về quấy quả con cháu. Thổi khèn và múa khèn thể hiện lòng tiếc thương của con cháu đối với người đã khuất, nhắc nhở con cháu nhớ về công lao của người đã khuất.
- Về mặt xã hội: Nghệ thuật Khèn thể hiện bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của cộng đồng người Mông, ghi dấu ấn sâu sắc, khó có thể phai được, mất đi được trong các lễ nghi. Nghệ thuật Khèn của người Mông nhắc nhở con cháu nhớ về cội nguồn, mang ý nghĩa thiết thực về tính nhân văn, tính cộng đồng cao, đồng thời, là nét đẹp văn hoá góp phần thúc đẩy và làm giàu cho nền văn hoá của các dân tộc ở mỗi địa phương. Để bảo tồn và phát huy nghệ thuật Khèn Mông hơn nữa cần quan tâm chú trọng đến đời sống vật chất của các nghệ nhân biểu diễn, làm nghề chế tác khèn và tôn vinh họ đúng mức.
- Về mặt nghệ thuật: Nghệ thuật trình diễn khèn thể hiện đặc sắc, kết hợp giữa âm thanh và động tác của người múa với cây khèn, người múa say sưa thể hiện các bài khèn, kèm theo là các động tác nhuần nhuyễn. Khèn thổi đi đôi với múa, đã thổi khèn là không để đôi chân đứng yên. Không chỉ múa khèn một người mà đến bốn người hoặc hơn, múa khèn với nhau chân đá rất đều và khỏe phù hợp với điệu khèn. Người Mông Trắng múa khèn thì đá chân nhau, còn người Mông Hoa múa khèn lại tự đá chân mình. Tìm hiểu múa khèn Mông ta thấy rõ ngôn ngữ múa ngẫu hứng mang đậm bản sắc văn hóa dân gian Mông. Người múa thể hiện cảm xúc sáng tạo trong say sưa, thể hiện cảm xúc nội tâm mạnh mẽ.
- Vai trò của Khèn trong đời sống của người Mông: Trong bản của người Mông có rất nhiều người biết múa khèn và thổi khèn, tuy nhiên những người giỏi thì mỗi vùng chỉ có vài người, theo tập quán thì có những bài khèn khi về già cần thiết họ mới học. Thầy khèn có vai trò quan trọng trong đám ma và đám giỗ. Bởi trong quá trình làm các nghi thức cúng tế, thầy khèn cùng với thầy cúng phải sử dụng các bài văn cúng tế để giao tiếp với các thần linh. Chỉ có như thế mới tiễn đưa được linh hồn người chết về với tổ tiên, tổ tiên mới hiểu để chấp nhận linh hồn người mới chết, đưa họ về với tổ tiên. Múa và thổi khèn trong đám ma vừa thể hiện tính nhân văn, vừa thể hiện tính nghệ thuật, không chỉ cho người Mông niềm tin vào cuộc sống mà còn thỏa mãn những nhu cầu tâm linh của họ.
Nghệ thuật Khèn của người Mông Mộc Châu, tỉnh Sơn La là một nét văn hoá đẹp, mang bản sắc riêng thể hiện tinh thần thượng võ, ý chí, ý nguyện, khát khao vươn lên trong cuộc sống. Đó là một loại hình văn hóa không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Mông với mong muốn được thể hiện lòng biết ơn đối với những người đã khuất, thể hiện với tổ tiên, mong muốn người chết được về với tổ tiên. Nghệ thuật Khèn của người Mông đã và đang trở thành những tiết mục trình diễn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc tại các chương trình nghệ thuật quần chúng, hội thi, hội diễn…góp phần quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giới thiệu văn hóa dân tộc Mông đến với công chúng, đồng thời thúc đẩy sự sáng tạo của cộng đồng.
Với sự kế thừa, sáng tạo, nghệ thuật Khèn Mông đã và đang được cộng đồng dân tộc Mông, cấp ủy và chính quyền huyện Mộc Châu cam kết bảo vệ và phát huy. Nghệ thuật Khèn của người Mông ở Mộc Châu được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 266/QĐ-BVHTTDL ngày 30/01/2018.